itaexpress / Tin ITA / Việt Nam trong mắt tôi / Hướng về quê hương / Lãng đãng Hà Nội xưa

Lãng đãng Hà Nội xưa

Hà Nội có một điều gì lạ lắm, nghĩ về nó ta tưởng như mình vừa lên tàu mà Hà Nội là nơi bâng khuâng sắp đến với bao nhiêu hứa hẹn chứa chan hồi hộp, mà cũng có khi là ngược lại, đó là nơi ta vừa chia tay đầy lưu luyến say mê tiếc nhớ, không dễ gì gặp lại để âu yếm đến nao lòng...

Cái đã qua và điều sắp tới luôn quyện lẫn vào nhau trong hồn ta cả khi buồn lẫn lúc vui, khi say và lúc tỉnh, lúc hy vọng và cả khi ủ ê sầu não vấn vương...

Không hiểu ở trăm phương, có bao giờ thế này không? Gặp hôm trời đẹp, động lòng nhớ cảnh giang hồ, xao xuyến tri âm, có ai khăn gói gió đưa nhảy lên con tàu về Hà Nội một ngày không định, rồi khi về đến Hà Nội chẳng để làm gì, cũng chẳng gặp ai, lang thang một buổi bên hồ Gươm, nghe gió cây thì thào, nhìn sóng biếc lăn tăn như tâm sự... rồi lại theo con gió, bước lên toa tàu về căn nhà cũ mà vợ con đang ngơ ngác chẳng hiểu mình vừa đi đâu?...

Hoặc thế này: Gặp tiết trời mang mang một ngày không mưa không nắng, nghe hàng cây trên đường phố xao động như vừa đón hồn từ muôn nẻo xa xăm trở về, lại cũng nghe như từ mái chiếc quán vắng nào đã có ai ngửa chiếc chén ra chờ ta ghé vào nhắp môi niềm thi vị, thế là phải khoác chiếc áo sờn vai ra đường, đi lang thang qua bao ngã tư chẳng cần nhớ nổi, gặp cây hoa gạo bên bờ hồ Gươm nở bung những chấm son để khuyên vào bầu trời ai vừa khai bút những bài thơ non nước thiên nhiên. Hoa gạo đưa ta ra tới ngoại ô có con đường dẫn về nẻo hút chân đê, tiếng trống hội làng thôi thúc người vào cuộc vui suốt sáng, có tiếng đàn đáy phừng phừng, có ca nữ yểu điệu thục nữ mà mái tóc bỏ đuôi gà mượt như trong truyện Liêu Trai khiến một Hà Nội như lan toả mãnh liệt niềm ham sống để mỗi linh hồn bỗng cũng say sưa trong hoan lạc được làm người Hà Nội.

Có nhiều buổi sáng sương chưa tan, gió còn ngại ngùng vào ngày mới, mặt đường còn thênh thang chưa quen với những vệt bánh xe thắng gấp, ta đi qua một con phố nào không có biệt thự, vỉa hè nhỏ bé chật chội, bỗng nôn nao lòng dạ. Thì ra mùi bánh mì nóng đang ra lò, nó vô hình mà như hữu hình vẽ lên miếng nhai giòn tan và ngọt mê tơi trong cổ họng. Bánh mì là thứ không thể làm giả, chỉ có người này có kỹ thuật cao, người kia kém lành nghề mà bánh không hấp dẫn cái mắt, cái lưỡi, cái mũi, cả lúc đói lòng lẫn khi no bứ…

Ta lang thang trong hồn phố cổ, nghe dĩ vãng đầy hoài niệm lãng đãng như hồn cô Đạm Tiên “sương in mặt tuyết pha thân” mà ta đâu có Kim Trọng hay nàng Kiều buông bắt ngón đàn TÂM.

Ta gặp phố Hàng Ngang. Từng có món gì, mặt hàng gì tên là Ngang không nhỉ, hay chỉ có người nói ngang, thói ngang tàng, con đường xuyên ngang? À mà có. Có món rượu ngang, tức rượu lậu một thời gian dài phổ biến mọi làng quê, phố thị làm say sưa bao người, ai cũng có thể hoá thi tửu Lý Bạch hay ít ra thành cụ Tản Đà muốn đào nền nhà lát gạch lên mà trồng rau húng Láng để nhâm nhi với cái “ngang” êm đềm ấy.

Nhưng hình như mặt phố này hoàn toàn tỉnh táo, tỉnh táo đến lạnh lùng trong mua bán giao tiếp như là “Ngựa xe như nước áo quần như nêm”. Hình như lịch sử còn ghi lại trên nhiều cánh cửa bức bàn và những mái ngói lô nhô cùng những cửa hàng là mặt tiền những ngôi nhà hình ống, hẹp ngang nhưng sâu hun hút như tràn đầy bí mật của bao tiền nhân trong những thế kỷ qua. Phố này nguyên có tên là phố Đường Nhân, nghĩa là phố những người nhà Đường, nói nôm na là phố người Hoa, Hoa kiều, một thời mọi người Trung Hoa đều được gọi là người nhà Đường hết, giống như ngày nay chúng ta quen gọi mọi người châu Âu từ Pháp, Anh, Mỹ đến Nga, Bỉ, Ả Rập.... đều là Tây hết. Người nước ngoài đánh bật người Việt Nam đi sang phố khác, họ làm nghề buôn là chính, từ buôn tạp hoá đến mứt kẹo và tơ lụa. Khi người Pháp ổn định Hà Nội, người Pháp gọi là phố người Quảng Đông (Rue du Cantonnaise) lâu dần chữ ấy đọc chệch ra thành Hàng Ngang.

Người sở tại của phố Hàng Ngang cũ, xưa có nghề nhuộm. Nghề tinh xảo, cả nước đã tín nhiệm, các cô gái muốn làm đỏm bằng vuông yếm sáng, cái thắt lưng hoa lý, hồ thuỷ, tấm áo màu thiên thanh, chiếc quai nón tím hững hờ... thường phải về đây thuê nhuộm. ở đây chuyên nhuộm loại màu mang sắc thái thanh thoát, ngày nay gọi là “gam” màu mát, nhẹ. Đó chính phố Hàng Lam. Những tấm gấm màu lam, màu xanh dương, màu lá cây... các đại gia, công tử, nho sinh, thầy đồ, cụ túc nho… cũng ưa màu lam từ phố này mà ra.

Nếu phố Hàng Lam chuyên nhuộm màu thanh nhạt, tươi mát, thì hàng xóm của nó lại có nghề nhuộm những màu tưng bừng, ấm nóng, đó là “gam” màu nóng, màu tươi, màu đỏ, màu điều, nên nó có tên là phố Hàng Đào (tên chữ là phường Thái Cực). Phố không chỉ có nghề nhuộm, làm các cô có chiếc yếm thắm hớp hồn trai trẻ nhiều trăm năm, bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương đã nhắc đến cái yếm đào trễ tràng khi cô ngủ ngày, làm mê mẩn sĩ tử, thi nhân: “Đi thì cũng dở, ở không xong”. Bởi vì cái yếm đào kia “trễ xuống dưới nương long”, mà làn da trinh bạch cứ phau phau trắng ngần như bãi cát non mùa xuân chưa bước chân nào đụng đến, thêm nữa: “Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm. Một lạch đào nguyên suối chửa thông”… Yếm đào là một thứ áo hớ hênh tinh nghịch, nó nửa che kín, nửa chểnh mảng để cuộc đời thầm ao ước khôn nguôi, nó không đỡ ngực, không độn ngực như cái áo coóc-xê ngày nay mà có người mẫu làm cho hai ngọn đồi, đôi gò bồng đảo kia bừng sáng dưới ánh đèn sân khấu, làm đến nửa thế giới này phải hồi hộp!

Hà Nội còn nhiều phố khác cũng làm nghề nhuộm vải. Làng Đồng Lầm (cửa ô Kim Liên ngày nay) chuyên nhuộm mày nâu, màu quê dân dã nghìn năm mộc mạc, gắn bó với người nghèo và cả người rời bỏ cuộc đời tục lụy tìm đến cửa Phật mà giải thoát tâm linh.

Có thứ vải the rất mỏng, màu sợi trắng ngà, chuyên bán ở chợ Rồng Nam Định, được đem về đây nhuộm nâu may áo dài phụ nữ, loại áo mớ ba mớ bẩy, áo tứ thân thắt vạt hay buông tà, còn gọi là vải Rồng, hay vải Đồng Lầm, mà bất cứ người phụ nữ nào của Hà Nội khi ra đường đều phải mặc tấm áo dài loại ấy, kể cả chị đi đổi cốt chăn bông, đi bán bưởi rong, đi thu gom chè chai đồng nát...

Lại còn phố Thợ Nhuộm, tức phố chuyên nhuộm vải đen, còn gọi là phố vải thâm. Trước thế kỷ XX, khu vực này còn nhiều bãi cỏ hoang, người dân nhuộm vải xong tha hồ mang ra dây phơi nắng, những tấm vải dài mấy chục thước, giăng trên những thanh nứa cong cong cho vải khỏi nhàu, đã làm nền cho nhiều hình tượng trong phim điện ảnh.

Tất cả những làng nhuộm này đều đã thành một nét hồn xưa Hà Nội, nó bàng bạc mông lung như có như không, như một mối tình anh Trương Chi với cô gái đẹp cứ khuất chìm vào mộng mị phôi pha.

Cũng nhớ đến một nghề đã khuất chìm, ngay tại những bãi phơi vải này: Nghề làm hỏa lò bằng đất sét. Vì thế mà nhà tù của Pháp dựng lên ở khu vực này mới gọi là Hoả Lò, chứ không phải mùa hè trong phòng giam nóng như hỏa lò. Dân ở đây có nghề đắp hỏa lò bằng đất, loại hỏa lò có thể sắc thuốc, sưởi ấm cho gái đẻ, đốt bằng mấy thanh củi chẻ nhỏ hoặc bằng ít than hoa mua từ Hàng Chiếu hoặc Hàng Than.

Khi người Pháp không thuê nhà ở số 10 phố Mã Mây của Hoa kiều để làm nhà tạm giam nữa mà xây trụ sở Toà án và nhà tù “xăng tan”, họ đuổi hết dân xuống khu vực chợ Đuổi để lấy đất. Nghề làm hỏa lò từ đấy cũng mất luôn vì có nhiều thứ bếp đun khác thay thế. Và nay, phố Thể Giao, phía sau phố Bà Triệu, vẫn còn tên cũ, nhưng nghề mới đã nhiều. Người Hà Nội lâu nay đã quen đun bếp dầu, bếp than tổ ong, bếp điện, bếp ga và lò vi sóng... Chiếc hỏa lò màu hồng đất sét khô đã nổi lửa trong không trung có mây gió đưa đường chăng, khiến ta nghĩ về nó mà thấy như bàn tay còn ấm trong ánh lửa giữa tiết đại hàn một Thăng Long cổ kính!

Hàng Gai đang là phố tơ lụa xuất khẩu tại chỗ. Tên có chữ Gai nghĩa là gì?

Phố Hàng Bè, phố Gia Ngư nguyên là đất gần kề bờ sông Hồng, cũng là ven hồ Thái Cực, tức hồ Hàng Đào. Người dân quanh vùng này sống bằng nghề đánh cá, nhất là chài lưới, vì thế họ phải đến phố Hàng Gai mua những sợi gai đánh thành từng con (hơi giống những con chỉ thêu) để về đan lưới vá chài. Đến những năm 50 thế kỷ XX, phố Hàng Gai vẫn còn nhiều nhà treo lưới và gai ra cửa bày hàng, chứ không phải như có người tưởng rằng phố này chuyên làm bánh gai.

Còn phố Hàng Bè nằm ngay trên bờ sông, nên số nhà 15 có một hiệu buôn cau lớn, nổi tiếng. Đó là nhà bà vợ ông Nguyễn Trường Tam, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ liên hiệp đầu tiên, ông cũng là nhà văn lừng danh Nhất Linh trong nhóm Tự lực văn đoàn, sau là một lãnh tụ Quốc dân đảng và đã tự vẫn ở Sài Gòn khi chính quyền Ngô Đình Diệm định đưa ông ra toà xử về tội chống đối chế độ ngụy quyền...

Nếu ngày xuân đủ cho hồn ta phơi phới thanh tân, ta lang thang vào Hà Nội cổ như đi trong quyển từ điển nghìn năm, hẳn ta gặp bao nhiêu trang kỳ thú mà nay nhiều cái không còn ở trên dời, nhưng thực ra vẫn còn trong lịch sử và nhất là vẫn còn trong hồn người cả nước. Khi chiếc đồng hồ đếm ngược được dựng lên để đo thời gian 1000 ngày dẫn tới đại lễ Nghìn năm Thăng Long- Hà Nội, thì mỗi hồn ta đang dâng trào con sóng yêu thương trước lịch sử huy hoàng một kinh thành cổ kính và oai hùng. Bao điều mất đi trong tiếc thương, nhưng những gì còn lại, chúng ta tâm niệm đó là của cải quý giá vô song, không thể để mất đi thêm được nữa!

Ta lang thang, ta làm tâm hồn ta phong phú, như đi trong ánh mặt trời mùa xuân, ta thấm vào mình sức mạnh và lửa ấm mùa xuân tràn trề hy vọng...

Băng Sơn / Hanoimoi